---o0o---
Chú thích
- S: nguyên tác tiếng Sanskrit của mục từ dạng La-tinh hóa
- P: nguyên tác tiếng Pàli của mục từ dạng La-tinh hóa
- A: tiếng Anh
- H: tiếng Hán
- Ph: tiếng Pháp
- T: tên mục từ bằng tiếng Tây Tạng dạng La-tinh hóa.
- Hâ: các hình thức phiên âm tiếng Việt khác nhau của một mục từ.
- Hd: các hình thức dịch nghĩa khác nhau của một mục từ.
- Td: tân dịch.
- Cd: cựu dịch.
- Đl: đối lại
- x: xem
- Đn: đồng nghĩa.
- Vd: ví dụ
- Gđ: cách gọi đầy đủ của một mục từ.
- Gt: cách gọi giản lược hay vắn tắt của một mục từ.
- Cg: hình thức đồng nghĩa hay tên gọi khác của một mục từ.
- Tên khoa học: tên gọi theo khoa học của một mục từ.
- k. ng.: khẩu ngữ
- X.: xem.
- CĐTĐL: Cảnh Đức Truyền Đăng lục
- CTTNL: Cổ tôn túc ngữ lục
- ĐQMT: Đại quang minh tạng
- DTNL: Duy Tắc ngữ lục
- GTPĐL: Gia Thái Phổ Đăng lục
- HĐNL: Hư Đường ngữ lục
- HSLNMDT: Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du tập
- KTTQTĐL: Kiến trung tịnh quốc tục đăng lục
- LĐHY: Liên Đăng Hội Yếu
- LSPGĐT: Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong
- MANL: Mật Am ngữ lục
- MBTL: Minh Bản Tạp lục
- MGNL: Minh Giác ngữ lục
- NĐHN: Ngũ Đăng Hội Nguyên
- NGCTT: Ngũ Gia Chính Tông Tán
- NHQL: Nguyên Hiền quảng lục
- NLNL: Nguyên Lai ngữ lục
- NTNL: Như Tịnh ngữ lục
- PDNL: Pháp Diễn ngữ lục
- PDNL: Phần Dương ngữ lục
- PKNL: Phạm Kỳ ngữ lục
- PQĐTĐ: Phật Quang Đại Từ Điển
- TBCTT: Tăng Bảo Chính Tục truyện
- TLTBT: Thiền Lâm Tăng Bảo truyện.
- ThQST: Thiền Quan Sách Tiến
- TĐT: Tổ Đường tập
- TCTT: Tống Cao Tăng truyện
- TTĐL: Tục Truyền Đăng lục
- ThMMBTSTL: Thiên Mục Minh Bản Thiền sư tạp lục
- VHVNTH 1989-1995: Văn hóa Việt Nam Tổng Hợp 1989-1995

---o0o---
Danh Từ Phật Học: Kinh Đại Bát Niết Bàn
----------------------------- Trích Lục Phật Học - Cs Hạnh Cơ -----------------------------
● Đại Bát Niết Bàn Kinh: do ngài Đàm Vô Sấm (385-433) dịch vào thời đại Bắc-Lương (397-439), gồm 40 quyển, được thu vào quyển 12 của Tạng Đại Chánh. Đây là bộ kinh đại thừa liễu nghĩa, đức Phật khai thị các giáo nghĩa thâm diệu về Như Lai thường trú, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, hạng nhất-xiển-đề cũng sẽ thành Phật, v.v... (Xem đầy đủ chi tiết hơn ở mục “Đàm Vô Sấm”.) Ngoài ra, ngài Pháp Hiển (đời Đông-Tấn) cũng có dịch một bản kinh với tên Đại Bát Niết Bàn Kinh (cũng gọi là Phương Đẳng Nê Hoàn Kinh), gồm 3 quyển (được thu vào quyển 1 của Tạng Đại Chánh); nhưng đây là kinh Niết Bàn tiểu thừa, nội dung chỉ thuật lại sự tình trước và sau khi đức Thế Tôn nhập niết bàn, còn các giáo nghĩa về Như Lai thường trú, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, hạng nhất-xiển-đề cũng sẽ thành Phật, thì không nói tới.

● Kinh Đại Bát Niết Bàn (Bản Bắc) đã đem tiến trình giáo hóa của đức Phật ví dụ như diễn tiến của sự tinh chế sữa tươi thành thực phẩm hay dược phẩm, theo đó:
1) Toàn thể lời Phật dạy được bao gồm trong Mười Hai Bộ Kinh – được ví dụ như thứ sữa nguyên chất mới vắt ra từ thân thể con bò (nhũ vị);
2) Từ Mười Hai Bộ Kinh rút ra phần cốt yếu là Khế Kinh (Tu-đa-la) – ví như từ sữa nguyên chất tinh chế ra chất “lạc” (lạc vị);
3) Từ Khế Kinh rút ra phần cốt yếu là các kinh Phương Đẳng – ví như từ chất lạc tinh chế ra chất “sinh tô” (sinh tô vị);
4) Từ kinh Phương Đẳng rút ra phần cốt yếu là các kinh Bát Nhã Ba La Mật – ví như từ chất sinh tô tinh chế ra chất “thục tô” (thục tô vị);
5) Từ hệ Bát Nhã rút ra cốt yếu là kinh Niết Bàn – ví như từ chất thục tô tinh chế ra chất “đề hồ” (đề hồ vị).
Tất cả được gọi chung là “Niết Bàn ngũ vị” (năm mùi vị theo kinh Niết Bàn).
Tông Thiên Thai lại đem thuyết “Niết Bàn ngũ vị” này để phối hợp với trình tự năm thời thuyết giáo của Phật; theo đó: thời Hoa Nghiêm là nhũ vị; thời A Hàm là lạc vị; thời Phương Đẳng là sinh tô vị; thời Bát Nhã là thục tô vị; và thời Pháp Hoa Niết Bàn là đề hồ vị. Lại nữa, trong kinh Hoa Nghiêm cựu dịch (do pháp sư Phật Đà Bạt Đà La dịch vào thời Đông-Tấn), có đưa ra thuyết “Hoa Nghiêm tam chiếu”, đem thứ lớp chiếu sáng của mặt trời ví dụ cho quá trình giáo hóa của đức Phật, theo đó, có ba giai đoạn:
1) Giai đoạn đầu, Phật giáo hóa cho hàng Bồ-tát, như mặt trời mới mọc, chiếu lên các đỉnh núi cao, gọi là “tiên chiếu cao sơn”;
2) Giai đoạn giữa, Phật giáo hóa cho hàng Duyên-giác, như mặt trời đã lên cao, chiếu sáng vào các hang hốc, gọi là “thứ chiếu u cốc”;
3) Giai đoạn sau, Phật giáo hóa cho hàng Thanh-văn và hạng người căn trí thấp kém, như mặt trời chiếu sáng khắp mặt đất bằng, gọi là “hậu chiếu bình địa”.
Tông Thiên Thai lại dẫn thuyết “Hoa Nghiêm tam chiếu” này để đem phối hợp với năm thời thuyết giáo của đức Phật; theo đó:
1) Thời Hoa Nghiêm được ví với lúc mặt trời mới mọc, gọi là thời “nhật xuất tiên chiếu”, hay “nhật chiếu cao sơn”;
2) Thời A Hàm ví như mặt trời lên cao hơn, gọi là thời “nhật chiếu u cốc”;
3) Thời Phương Đẳng ví như mặt trời đã lên thật cao trên bầu trời, gọi là thời “nhật chiếu bình địa”;
4) Thời Bát Nhã ví như mặt trời vào khoảng trước giờ ăn trưa, tức từ 9 tới 11 giờ (giờ Tị), gọi là thời “nhật chiếu ngung trung”, hay nói tắt là “ngung trung” (còn hơi xéo, tức trước giờ ăn trưa);
5) Thời Pháp Hoa Niết Bàn ví như mặt trời đứng bóng, tức giờ đúng Ngọ, gọi là thời “nhật luân đương ngọ”, hay nói tắt là “chánh trung” (ngay chính giữa, tức đúng giờ ăn trưa).
Thời Phương Đẳng (Phương Đẳng thời). Đây là thời thuyết giáo thứ ba (theo tông Thiên Thai), tiếp theo thời A Hàm. “Phương Đẳng” là chỉ cho loại giáo pháp có nghĩa lí sâu xa, rộng lớn, bình đẳng, nên cũng gọi là “phương quảng, đại phương quảng, hay đại phương đẳng”. Nói một cách chính xác, “phương đẳng” là giáo pháp đại thừa, là loại giáo pháp “nhật chiếu bình địa” (mặt trời lên đã cao, chiếu xuống mặt đất bằng). Nếu nói chính xác hơn nữa, thì “phương đẳng” là buổi đầu của thời kì nói pháp đại thừa. Thời này kéo dài trong 8 năm, đức Phật đề cao giáo pháp đại thừa; khuyến khích mọi người từ bỏ thiên kiến cùng những tri kiến thấp cạn của tiểu thừa, dũng mãnh phát tâm tu học giáo pháp đại thừa.

Phật Giáo có tin luật nhân quả là chính xác?     Phật Giáo có tin công dụng của lễ cầu siêu cho vong linh không?     Sám Hối Tội Phá Thai     Hóa Giải Nghiệp Chướng     Nấm, Cà Rốt Và Đậu Hũ Kho Tiêu     Xuất Gia Là Dấn Thân Tu Học & Phụng Sự     LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT ĐỂ GIỮ TÂM THANH TỊNH     Đậu Hũ Xào Lá Lốt     ĐỨA TRẺ THẢ RÙA     Con nuôi quá nhiều mèo nên má con sanh phiền não. Xin Phật giúp đỡ mà hình như Phật không có giúp gì hết?     


















Pháp Ngữ
Trong sóng gió lập thân mới khó,
Nên ở đời chớ có bôn chôn.
Vội vàng thường hỏng việc luôn,
Nên chi cần giữ cho lòng lặng an.
Ði an toàn nhờ đường bằng phẳng,
Hiểu tình nhau mới đặng bền lâu.
Muốn đừng hối hận trước sau,
Chớ sinh lắm chuyện không đâu gây phiền.


Tháng Năm  

 



Đăng nhập


Playist


Bạn cần đăng nhập

Tu sĩ Việt Nam



Tu sĩ Quốc Tế


Album mới






Chuyên trang này được lập ra và hoạt động theo tinh thần Pháp Thí .
Tất cả các Kinh/Sách Phật Học trên trang này được sưu tầm từ các website Phật Giáo nên Ban Quản Trị có thể thiếu xót về mặt tác quyền đối với một số sách Phật Học .
Nếu quý Phật Tử / Tổ chức nào đang nắm tác quyền của các tác phẩm trên xin vui lòng Thông báo cho Ban Quản Trị biết, chúng tôi sẽ trao đổi trực tiếp để có thể có được bản quyền hợp lệ đối với các Sách Phật Học đó.
Ban Quản Trị trân trọng cám ơn.


Website có tất cả 78,946 pháp âm và 7,152 album thuộc tất cả các thể loại.
Có tổng cộng 138,925 lượt nghe.
Tổng số tu sĩ trong website 287, gồm cả tu sĩ trong nước và cả quốc tế.
Hiện đang có 1,332 thành viên đã đăng ký. Chào mừng thành viên mới nhất Minh Đức Phạm
Lượt truy cập 36,630,055